PGS.TS
Hồ Khang
Viện
Lịch sử quân sự Việt Nam
1- Sự vận động lịch sử
của một quốc gia, xét trên chiều cạnh
kinh tế- xã hội, như Marx từng nhận định, xoay quanh sự vận động đối lập
giữa đô thị với nông thôn[1].
Nhưng, xét trên khía cạnh chính trị thì
lịch sử của một dân tộc được phản ánh bằng lịch sử những trung tâm chính trị của nó- thường là những đô thị được kiến tạo,
rồi suy tàn và có thể phục hưng. Thêm vào đó, nếu xét một trung tâm chính trị theo nghĩa rộng nhất, thì hẳn phải phân tích
chúng như những trung tâm quyền lực
đầy ảnh hưởng đối với một vùng đặc trưng về địa- văn hóa. Những trung tâm như thế bao giờ cũng thể hiện
ra trong lịch sử như là các đô thị với mức độ tập trung nguồn lực đáng kể. Từ
góc độ này, có lẽ nên nhìn nhận lịch sử Việt Nam như một quá trình dịch chuyển,
định dạng và hình thành các trung tâm chính trị, mà ở đây chúng ta nghĩ tới
trục nối dài từ Thăng Long nghìn năm đến đô thị trẻ Sài Gòn- thành phố Hồ Chí
Minh.
2- Hoa Lư là trung tâm
chính trị đầu tiên của nước Việt Nam độc lập- Đại Cồ Việt, cho đến năm 1009,
nhưng Hoa Lư không phải là một trung tâm chính trị bền vững[2]-
đó chỉ là nơi hội tụ quyền lực trong giới hạn lịch sử của sự chia cắt các địa
phương, nơi khởi đầu của mô hình nhà nước
sơ khai phi hành chính còn nặng tính quân sự- tự phát. Một nhãn quan chính
trị, mà giờ đây, cho phép nhìn nhận rằng, đấy là nhãn quan chiến lược, phối
ghép những nhu cầu tất yếu của lịch sử đã dẫn đến quyết định của Lý Công Uẩn
vào năm 1010[3]: dời đô
về thành Đại La với tên gọi mới là Thăng Long- nơi “ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng chầu hổ phục, chính giữa nam bắc
đông tây, tiện nghi sông núi sau trước. Vùng nàu mặt đất rộng mà bằng phẳng,
thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức
tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ hội tụ
quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời”[4].
Từ năm 1010 về sau, trong sự chuyển động của lịch sử, Thăng Long, thủ đô chính
trị- hành chính, nơi khởi phát của mô hình nhà
nước dân tộc[5], đã trở
thành điểm hội tụ của sự phát triển
kinh tế, văn hóa, chính trị cho toàn Đại Việt. Đặc biệt, từ sau những thắng lợi
của các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông trong thế kỷ 13 và cuộc kháng
chiến chống quân Minh thế kỷ 15, từ tâm điểm Thăng Long, quyền lực của nhà nước dân tộc theo lối phong kiến tập quyền ngày càng mở rộng,
tạo nên một trường lực chính trị,
thậm chí có lúc lấn át tính tự trị điển hình của làng xã Đại Việt và hiện thực
lịch sử đó đã góp phần tạo lên tính thống nhất trên toàn cõi Đại Việt; cũng
chính từ Thăng Long, nền văn minh Đại Việt đã có những bước chuyển mình mà mốc
đánh dấu quan trọng nhất là sự ra đời của bộ luật Hồng Đức cuối thế kỷ 15; cũng
xuất phát từ đô thị hành chính này,
những đô thị phụ cận như phủ Thiên Trường đã được kiến tạo.
3- Vào thế kỷ 17, Đại
Việt không còn giữ được sự thống nhất chính trị như thời Lê Sơ, ở hai đầu của
đất nước là hai thế lực chính trị đối lập nhau với họ Trịnh ở Đàng Ngoài và họ
Nguyễn ở Đàng Trong. Như một quy luật lịch sử, sự đối kháng giữa hai thế lực đó
lại là một trong những nhân tố thúc đẩy sự hưng khởi của nền kinh tế hàng hóa
và đô thị ở cả hai Đàng. Ở Đàng Ngoài, Thăng Long trở thành một trung tâm kinh
tế hàng hóa lớn, một đô thị phồn thịnh (“Thứ
nhất Kinh kỳ thứ nhì phố Hiến”). Ở Đàng Trong, Hội An và Gia Định là những
trong tâm kinh tế hàng hóa lớn. Trên cơ sở đó, từ Đàng Ngoài vào Đàng Trong
hình thành trục lưu thông hàng hóa lớn: Thăng Long- phố Hiến- Hội An- Gia Định[6].
Đến thế kỷ 19, triều Nguyễn đã tai lập trật tự một trung tâm, đặt ở Phú Xuân-
Huế. Trật tự này đã kéo theo sự suy tàn của Thăng Long về mọi mặt suốt nửa đầu
thế kỷ này (“Dấu xưa xe ngựa hồn thu
thảo/ Tòa cũ lâu đài bóng tịch dương”). Bên cạnh đó, vùng đất non trẻ Gia
Định lâm vào tình trạng bị vua Minh Mạng “dè chừng” sau cuộc nổi dậy của Lê Văn
Khôi năm 1833.
4- Cuộc xâm lăng Việt
Nam của thực dân Pháp cùng chính sách khai thác, cai trị thuộc địa mà họ thực
thi từ nửa sau thế kỷ 19 đã làm biến chuyển mọi mặt đời sống, kinh tế, xã hội
của nước ta. Trong hoàn cảnh đó, bộ mặt của Thăng Long- Hà Nội và Sài Gòn- Gia
Định đều có nhiều biến chuyển. Kiến trúc nhà ở, đường phố, nếp sống đô thị…đều
mang đậm tính Tây phương. Sự Âu hóa ở
hai đô thị này là điều không ai phủ nhận. Nhưng theo sự biến của lịch sử, Sài
Gòn trở thành thủ phủ của chính quyền tay sai của Pháp và sau này
là Mỹ. Ngược lại, Hà Nội là thủ đô
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa với một chính
phủ do nhân dân dựng lên, đấu tranh cho ước muốn chân chính của dân tộc-
Độc lập dân tộc, thống nhất quốc gia và chủ nghĩa xã hội; dân giàu nước mạnh,
ai cũng được cơm no, áo ấm, ai cũng được học hành.
5- Nửa sau thế kỷ 20,
Hà Nội và Sài Gòn làm đầu mối cho sự phát triển đất nước. Đó chính là giai đoạn
để có được sự phát triển đô thị thì khu vực nông thôn cần được nâng cấp. Những
năm của thập kỷ 60,70 của thế kỷ 20 và sau nữa, ở miền Bắc, phong trào tăng gia
sản xuất và luồng lực tập thể hóa đã
làm rắn chắc lại vùng nông thôn bị không quân và hải quân Mỹ tàn phá. Đó là một
cơ sở cho Hà Nội đương đầu được với Washington. Ở miền Nam, vào những năm đầu
thập niên 1970, trong vùng do chính quyền Việt Nam cộng hòa kiểm soát, người ta
tiến hành việc “Phục hưng làng xã”[7]
bằng những đợt cải cách điền địa- một sự nối tiếp chính sách dở dang về ruộng
đất của chính quyền Ngô Đình Diệm. Có điều, nếu như ở miền Bắc, khu vực nông
thôn được củng cố làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế nói chung và thủ đo Hà
Nội nói riêng, thì ở miền Nam, chương trình “Phục hưng làng xã” chỉ cốt tạo
vành đai an toàn cho chính quyền Sài Gòn, phụ trợ cho chiến dịch Phượng Hoàng vốn được đẩy mạnh sau năm
1968. Nhưng dù chủ ý chính trị của các thế lực phản cách mạng, phản dân tộc thế
nào, những nẻo đường lịch sử cũng vẫn hướng về chân trời độc lập tự do, ý chí
và nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam cũng vẫn chiến thắng. Với Đại
thắng mùa xuân năm 1975, thế đối đầu chính trị giữa hai miên chấm dứt, non sông
thu về một mối. Sài Gòn đươc mang tên Bác- thành phố Hồ Chí Minh.
6- Không phải là tình
cờ mà Nguyễn Văn Linh trở thành nhân vật lịch sử trọng yếu trong công cuộc Đổi mới ở Việt Nam năm 1986. Vốn là Bí
thư thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, từ thực tiễn ở địa bàn công tác này, Nguyễn
Văn Linh đã có sự nhận thức đúng đắn về thực trạng đất nước, thấy được “những
việc cấn làm ngay” và ông cùng với tập thể lãnh đạo Đảng đã quyết định thực
hiện công cuộc Đổi mới, đưa đất nước ra khỏi đói nghèo mà nền độc lập dân tộc
được vững vàng hơn. Làn sóng Đổi mới đã làm biến chuyển mọi mặt đời sống đất
nước ta tốt đẹp hơn. Dễ nhận thấy Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh-những trung
tâm kinh tế năng động bậc nhất, những trung tâm văn hóa lớn của cả nước, đã góp
phần quan trọng trong sự biến chuyển đó của đất nước. Thế nên, trên một phương
diện, có thể khẳng định sự kết nối Thủ
đô Hà Nội với thành phố Hồ Chí Minh chính là nền tảng của sự phát triển của
Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới.
Download toàn văn bài viết tại: Trang Web NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ
[1] Ở đây, người ta thấy rằng, quan hệ
giữa người nông dân với thị dân còn biểu hiện ra ở quan hệ giữa nông thôn và đô
thị. Những mâu thuẫn giữa hai khu vực này càng phát triển bao nhiêu, thì nó
càng cho thấy sự phát triển của kinh tế- xã hội bấy nhiêu. “ Cơ sở của mọi sự phân công lao động phát
triển và lấy sự trao đổi hàng hóa làm môi giới là sự tách rời giữa thành thị và
nông thôn. Có thể nói rằng toàn bộ
lịch sử kinh tế của xã hội được tóm tắt lại trong sự vận động của sự đối lập đó…”
(Chúng tôi nhấn mạnh). Các Mác, Toàn tập,
tập 23 (Tư bản quyển I), Nxb CTQG, Hn, 1993, tr511-512.
[2] Thực ra, chính quyền Hoa Lư là một
đặc trưng của hình học quyền lực Mandala.
Trong đó, “các khu định cư liên minh đã
xây dựng một Mandala, một dạng hình học
đầy quyền lực về tinh thần xung quanh
khu định cư…Hình thể Mandala có thể
được trình bày như một khối liên kết
địa vị chính trị; một vương quốc lí
tưởng như thể loại trừ được những mối đe dọa và những ảnh hưởng không mong
muốn. Ngay trung tâm sẽ là người cai trị, được vây quanh bởi những cận thần của
ông ta…” (in đậm do chúng tôi nhấn mạnh) (M.Somers Heudhues, Lịch sử phát triển Đông Nam Á, Nxb VHTT 2007, tr23-24).
Mandala mang tính chất một kết cấu trật tự phi nhà nước hơn là một thể chế nhà
nước.
[3] Sử gia Tạ Chí Đại Trường cho rằng một
trong những lí do dời đô của Lý Công Uẩn là nhằm làm mờ những rắc rối từ nguồn
gốc là một dòng họ lang bạt, không
xuất thân từ quý tộc địa phương của vua Lý Thái Tổ. Xem thêm, Tạ Chí Đại
Trường, Những bài dã sử Việt, Nxb Tri
Thức 2009, tr177.
[4] Bản dịch của Viện Khoa học Xã hội
Việt Nam,
in trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb KHXH, HN 1993.
[5] Nhà nước dân tộc (national state) là
một bước tiến chính trị vượt bậc so với nhà nước sơ khai (early state). Nếu các
nhà nước sơ khai chủ yếu mang tính tập trung quyền lực quân sự để tiến tới
quyền lực công mà chưa có bộ máy hành chính của nó thì nhà nước dân tộc là giai
đoạn quyền lực công đi đôi với chính sách công và kèm theo đó đương nhiên là sự
định hình của bộ máy hành chính.
[6] Nguyễn Quang Ngọc chủ biên, Tiến
trình lịch sử Việt Nam,
Nxb Giáo Dục, HN 2001, tr151.
[7] Xem thêm Trần Ngọc Châu, Từ chiến tranh đến hòa bình- Phục hưng làng
xã, nhà in Đoàn viên, Sài Gòn 1967.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!