PGS, TS. Hồ Khang
Những năm qua công tác nghiên cứu lịch sử quân
sự đã có nhiều cố gắng và đạt được những thành tựu quan trọng. Nhiều công trình
lịch sử về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Quân đội nhân dân Việt Nam, sự nghiệp và tư
tưởng quân sự Hồ Chí Minh, nghệ thuật quân sự, hậu cần - kỹ thuật quân sự trong
30 năm chiến tranh (1945 - 1975)... đã được xuất bản ở trung ương và địa
phương... Nhiều vấn đề lớn về lịch sử quân sự dân tộc qua các thời đại, lịch sử
các học thuyết quân sự trên thế giới và học thuyết quân sự (hay trường phái
quân sự) Việt Nam, lịch sử nghệ thuật quân sự Việt Nam, lịch sử tổ chức quân sự
Việt Nam, lịch sử công tác đảng, công tác chính trị trong lực lượng vũ trang
nhân dân Việt Nam... đang thực hiện hoặc mới chỉ bắt đầu triển khai và dự định
thực hiện.
Bên cạnh đó, ngay trong mỗi chuyên ngành của khoa học lịch sử quân
sự, nhiều vấn đề khoa học đang được đặt ra một cách khách quan, cần phải tập
trung giải quyết.
So với nhiều bộ môn khoa học xã hội - nhân
văn khác, với các cơ quan, viện nghiên cứu trong cả nước thì hơn 30 năm xây
dựng, phát triển của Viện và Ngành lịch sử quân sự Việt Nam là khoảng thời gian
ngắn. Trong khoảng thời gian đó, toàn Ngành và Viện lịch sử quân sự đã triển
khai tổng kết, nghiên cứu, biên soạn và xuất bản nhiều đầu sách, nhiều số tạp
chí và tổ chức nhiều cuộc hội thảo khoa học nhằm góp phần làm sáng tỏ những vấn
đề lịch sử quân sự dân tộc, lịch sử hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ xâm lược; đấu tranh chống những quan điểm sai trái hoặc xuyên tạc
lịch sử. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, kinh nghiệm tích luỹ được cũng như
năng lực nghiên cứu, biên soạn của đội ngũ cán bộ trong Viện và Ngành được nâng
cao; sự hợp tác giữa Viện và Ngành với các cơ quan khoa học trong và ngoài quân
đội ngày càng mở rộng, hiệu quả; đội ngũ cán bộ nghiên cứu lịch sử quân sự nhận
thức đầy đủ hơn tầm quan trọng của phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
chuyên ngành lịch sử quân sự.
Tiếp tục nỗ lực trên đây, đồng thời nắm vững
và vận dụng hiệu quả phương pháp luận, từng bước đổi mới và hoàn chỉnh phương
pháp nghiên cứu chuyên ngành lịch sử quân sự, là những đòi hỏi đặt ra nhằm nâng
cao hơn nữa chất lượng nghiên cứu, chất lượng các công trình lịch sử quân sự,
góp phần thúc đẩy toàn Viện và Ngành vươn lên ngang tầm yêu cầu, nhiệm vụ của
sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân
và nền quốc phòng toàn dân trong giai đoạn cách mạng mới. Thực tế cho
thấy, thời gian qua, bên cạnh những thành tựu, kết quả đã đạt được, công tác nghiên
cứu lịch sử quân sự còn có một số hạn chế. Nhiều công trình lịch sử quân sự còn
nặng về mô tả diễn biến, sự kiện, tính khái quát chưa cao. Ở một số cuốn khác,
nội dung lịch sử được tái hiện còn dàn trải, chưa bám sát đối tượng hoặc dung
lượng giữa các mảng nội dung chưa cân đối. Chẳng hạn, khi tái hiện lịch sử cuộc
chiến tranh 30 năm (1945-1975), một số công trình lịch sử của địa phương, đơn
vị, chỉ tập trung mô tả diễn biến các hoạt động đấu tranh vũ trang; những mảng
nội dung khác thuộc về hoặc liên quan còn mờ nhạt, còn thiếu vắng...
Những hạn chế như thế trong các công trình lịch
sử quân sự có nhiều nguyên nhân; một trong số đó là việc nắm vững và vận dụng
phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu chuyên ngành lịch sử quân sự của tác
giả/tập thể tác giả. Đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu lịch sử quân sự
hiện nay được hình thành từ nhiều nguồn, trong đó, một số có vốn sống thực tế
phong phú, nhưng do điều kiện chiến đấu, công tác nên chưa qua đào tạo cơ bản
về sử học, kiến thức chung cũng như việc nắm vững và vận dụng phương pháp luận
và phương pháp nghiên cứu từng chuyên ngành lịch sử quân sự còn bị hạn chế. Bên
cạnh đó, vì là một chuyên ngành khoa học còn mới nên việc tích luỹ kinh nghiệm
nghiên cứu công trình của đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực này chưa nhiều; còn
thiếu các chuyên gia giỏi; việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của Viện và
của Ngành còn gặp khó khăn...Trong những điều kiện đó, để nâng cao chất lượng
công trình lịch sử quân sự, phương pháp liên ngành trong khoa
học xã hội đang ngày càng lên ngôi, nhiều nhà nghiên cứu có vẻ đã quên mất rằng,
một công trình khoa học ở mỗi lĩnh vực đều cần thể hiện được đặc trưng của ngành đó – hay, nói một
cách hiện đại, có được bản sắc khoa học của
lĩnh vực nghiên cứu mà mình chọn lựa và tham gia. Nếu không có một phương pháp
chuyên ngành vững chắc, cũng như không đặt định phân tích của mình trên một nền
tảng khoa học nhất định, thì công tác nghiên cứu sẽ dễ dàng trở thành một công trình chủ quan của nhà nghiên cứu
trước những dữ liệu khoa học. Do đó, đối với công tác nghiên cứu lịch sử, bao
gồm lịch sử quân sự (LSQS), yêu cầu quan trọng bậc nhất đối với nhà sử
học là phải nắm vững và vận dụng đúng đắn, hiệu quả phương pháp luận sử học cũng như phương pháp nghiên cứu chuyên ngành.
Phương
pháp,
hiểu một cách chung nhất, là hệ thống các nguyên lý và quy tắc mà chủ thể (ở
đây là tác giả hoặc tập thể tác giả công trình) phải nhất quán thể hiện trong quá trình thực hiện công trình nhằm
đạt tới mục đích đề ra. Như vậy, phương
pháp và kết quả nghiên cứu có mối
quan hệ biện chứng – không thể tách rời phương
pháp khỏi kết quả nghiên cứu, trong
khi đối tượng nghiên cứu luôn độc lập tương đối với nhận thức của nhà nghiên
cứu. Trong nghiên cứu khoa học xã hội, mối quan hệ giữa phương pháp và đối tượng làm
hình thành một lĩnh vực nghiên cứu cụ
thể.
Phương
pháp luận
là lý luận về phương pháp[1]. Mọi khoa
học đều có lý luận về phương pháp của bản thân khoa học đó, vì khi nghiên cứu
đối tượng, các khoa học đều phải xác định cho được các phương pháp thích hợp,
kiến giải tính tất yếu của các phương pháp được sử dụng cũng như mối quan hệ
giữa các phương pháp đó. Có thể nói, không có phương pháp khoa học thì không có nhà khoa học, cùng lúc đó, không
có phương pháp luận thì không có khoa
học: phương pháp luận khoa học ra đời là giai đoạn phát triển và trưởng
thành của khoa học, khi đó, khoa học đã có đủ khả năng tự nhận biết mình, đó cũng là cơ sở cho tính hợp thức và tính chính
đáng của một ngành khoa học nhất định. Tất nhiên, mỗi ngành khoa học và
phương pháp luận của nó đều đặt nền trên một thế giới quan triết học nhất định. Thế giới quan đó, đến lượt nó,
bao giờ cũng phải đảm bảo tính khách quan
và tính thực tiễn, hai tiêu chí hàng
đầu của khoa học hiện đại cả ở khoa học xã hội lẫn khoa học tự nhiên.
Trên bình diện như vậy, có thể thấy, sử học
mácxít lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cơ sở
phương pháp luận. V.I. Lênin khẳng định rằng, phương pháp luận sử học mácxít là
sự thống nhất lý luận mácxít về quá trình lịch sử và phương pháp nghiên cứu
mácxít quá trình đó. Đối với những người làm công tác nghiên cứu lịch sử, nắm
vững và vận dụng phương pháp luận sử học mácxít có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Những vấn đề cơ bản nhất thuộc về phương pháp luận sử học mácxít bao gồm: đối
tượng, chức năng, nhiệm vụ, tính đảng và tính khoa học của sử học; những quan
điểm, những cơ sở lý luận mácxít về phương pháp nghiên cứu lịch sử; phân kỳ
lịch sử... Người làm công tác nghiên cứu lịch sử quân sự, ngoài việc dựa trên
nền tảng phương pháp luận trên đây, còn cần phải quán triệt và vận dụng học
thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh và quân đội cũng như
quan điểm, đường lối cách mạng, đường lối quân sự của Đảng để giải quyết các
vấn đề đặt ra cho nền sử học quân sự. Thực vậy, nền sử học quân sự là một bộ
phận của khoa học lịch sử - như thế, nhà sử học quân sự cũng đang góp phần mình
vào công cuộc duy trì truyền thống quân sự Việt Nam. Hơn nữa, đa phần các công
trình sử học của sử học quân sự ở
Việt Nam lại đại diện cho cái nhìn và nhận thức chính thống.. Đây là đặc điểm
nổi bật của sử học quân sự đặt trên nền tảng mác-xít.
Do vậy,
vấn đề phương pháp luận, người làm
công tác nghiên cứu lịch sử quân sự phải được trang bị kiến thức rộng, trước
hết là kiến thức về một số lĩnh vực chuyên sâu như quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh và quân đội, đường lối chính
trị, đường lối quân sự của Đảng, nghệ thuật quân sự, tư tưởng quân sự, kỹ thuật
- hậu cần quân sự, tổ chức quân sự, địa lý quân sự, kinh tế quân sự, văn hoá
quân sự... Việc nắm vững và vận dụng kiến thức về các lĩnh vực chuyên sâu ấy
vào công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử quân sự là một điều kiện cần thiết
để xây dựng được những công trình có chất lượng. Nếu phương pháp luận là căn bản tạo lập của một ngành khoa học, phương pháp khoa học là căn bản đặt định
cho một nhà khoa học; do đó, chỉ khi
nào người nghiên cứu nắm bắt và hòa nhập vào phương pháp khoa học và phương
pháp luận nghiên cứu (chuyên ngành), thì sản phẩm của quá trình nghiên cứu mới
trở thành một công trình khoa học.
Trên bình diện phương pháp nghiên cứu chuyên ngành, cần
tiếp tục xác định rõ vị trí, vai trò, đối tượng, phạm vi của khoa học lịch sử quân sự Việt Nam.
Ngược dòng thời gian, có thể thấy rằng, để
giữ nước, ngay từ thời bình, các thế hệ người Việt Nam, bên cạnh việc chăm lo
phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội, vẫn luôn phải đề phòng và ra sức chuẩn bị
mọi mặt để sẵn sàng đối phó với kẻ thù xâm lược - những kẻ thù rất hung hãn,
thường có tiềm lực và sức mạnh kinh tế, quân sự lớn hơn Việt Nam gấp nhiều lần.
Hoạt động quân sự, vì thế, không phải chỉ diễn ra khi đất nước có chiến tranh
mà còn được tiến hành ngay từ thời bình, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
chính trị, an ninh - quốc phòng, kinh tế, văn hoá - xã hội và đối ngoại. Chỉ có
như thế, khi đối diện với kẻ thù xâm lược, đất nước Việt Nam mới có đủ sức mạnh
để chiến đấu và chiến thắng. Di huấn của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn thời
Trần là một ví dụ. Dặn lại các vua Trần, ông nhắc rằng: "Khoan thư sức dân làm kế bền gốc, sâu rễ -
ấy là thượng sách giữ nước". Do vậy, đối tượng, phạm vi đề cập của khoa
học lịch sử quân sự Việt Nam rất rộng lớn, gồm nhiều lĩnh vực liên quan tới sức
mạnh của đất nước, của vương triều, của chế độ như xây dựng thể chế, xây dựng
tiềm lực về chính trị, quân sự, kinh tế, khoa học - công nghệ, văn hoá - xã
hội, đối ngoại... Những năm qua, nhiều vấn đề thuộc về lịch sử quân sự được tổ
chức nghiên cứu, tổng kết một cách tương đối cơ bản, hệ thống, toàn diện. Bên
cạnh đó, mảng đề tài về chiến tranh nhân dân địa phương trong hai cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, mảng đề tài về lịch sử -
truyền thống của các chiến trường, các quân khu, các địa phương, các tổng cục,
các quân chủng, binh chủng và các đơn vị trong toàn quân cũng đã và đang được
nghiên cứu, biên soạn... Có thể thấy, thành
tựu và kết quả nghiên cứu của Viện và Ngành lịch sử quân sự nhiều năm
qua là rất quan trọng. Những thành tựu và kết quả nghiên cứu đó góp phần làm
giàu kho tàng lý luận về tư tưởng và nghệ thuật quân sự Việt Nam, về chiến
tranh nhân dân Việt Nam; giáo dục truyền thống cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ
lực lượng vũ trang và nhân dân; xây dựng tư duy quân sự cũng như phẩm chất,
nhân cách con người mới cho đội ngũ sĩ quan và quân nhân trong lực lượng vũ
trang nhân dân; đấu tranh có hiệu quả với những luận điểm sai trái, xuyên tạc
và phủ nhận lịch sử, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng CSVN. Ngoài ra, bằng
kết quả nghiên cứu, khoa học lịch sử quân sự cũng đã góp phần cung cấp luận cứ
khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương về quân sự, quốc phòng, bảo
vệ Tổ quốc...
Kế thừa những thành tựu và kết quả trên đây,
khoa học lịch sử quân sự Việt Nam cần mở rộng phạm vi nghiên cứu và đi sâu hơn
nữa vào các lĩnh vực, các chiều cạnh thuộc về hoặc liên quan tới quá trình xây
dựng tiềm lực và phát huy sức mạnh của đất nước, của chế độ, của nền quốc phòng
toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân trong thời bình cũng như thời chiến...
Bên cạnh đó, công tác nghiên cứu lịch sử quân sự phải được tiếp tục triển khai
đồng bộ, cả lịch sử quân sự thế giới và lịch sử quân sự dân tộc, lịch sử tư
tưởng quân sự, lịch sử công tác đảng, công tác chính trị trong lực lượng vũ
trang, lịch sử hậu cần - kỹ thuật quân sự, lịch sử học thuyết quân sự, lịch sử
quốc phòng... Các chuyên ngành đó và những kết quả nghiên cứu của nó hỗ trợ cho
nhau sẽ giúp hiểu sâu hơn, đúng hơn, đầy đủ hơn các vấn đề thuộc về hoặc liên
quan tới lịch sử quân sự. Nếu có tri thức về lịch sử quân sự thế giới thì càng
hiểu rõ bản sắc cũng như những sáng
tạo độc đáo của nghệ thuật quân sự Việt Nam qua các thời đại, sẽ nhận thấy rõ
hơn sự kế thừa và phát triển của nghệ thuật quân sự trong hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Nghiên cứu lịch sử hậu cần - kỹ
thuật quân sự sẽ góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ giữa kinh tế và quân sự, giữa
con người và vũ khí, góp phần đấu tranh với những biểu hiện "duy ý
chí", "vũ khí luận"... Ngoài ra, những vấn đề quân sự hiện đại
như mối quan hệ giữa quân đội quốc gia với nhà nước và nhân dân, xu hướng chạy
đua vũ trang và quốc phòng trong thời đại toàn cầu hóa, vai trò của quân đội
trong tương quan với lực lượng cảnh sát, hay cả những chủ đề chi tiết hơn như
sự thay đổi trong khẩu phần quân đội, sự chuyển biến của các trung tâm quân sự
trong quốc gia… đều có thể có được sự soi sáng nhất định từ cái nhìn lịch sử
quân sự. Mặt khác, nghiên cứu lịch sử quân sự một cách có hệ thống cũng sẽ mở
ra những vấn đề và lĩnh vực nhận thức cần thiết cho dân tộc.
Lịch sử và lôgíc là phương pháp chủ yếu được vận
dụng trong nghiên cứu, biên soạn các công trình lịch sử nói chung và lịch sử quân
sự nói riêng. Có thể khẳng định rằng, kết quả, chất lượng nghiên cứu và giá trị
khoa học, giá trị thực tiễn của công trình lịch sử phụ thuộc rất nhiều vào việc
vận dụng các phương pháp cơ bản này trong quá trình nghiên cứu, biên soạn. Mỗi
một công trình sử học, ngoài việc mô tả diện mạo để "định danh" đối tượng thuộc phạm vi đề cập, còn cần phải phân
tích, luận giải, đánh giá các sự kiện, hiện tượng và quá trình lịch sử. Muốn
vậy, ngoài phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc, cần phải vận dụng các
phương pháp khoa học khác trong nghiên cứu như phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, hệ thống - cấu
trúc... Việc vận dụng kết hợp các phương pháp đó một cách nhuần nhuyễn, phù
hợp, cho phép người nghiên cứu tiếp cận, đi sâu, tìm ra quan hệ tương tác giữa
các sự kiện, hiện tượng cũng như các mối liên hệ bên trong của mỗi sự kiện,
hiện tượng lịch sử; cho phép người nghiên cứu "cắt ngang, bổ dọc" vấn
đề trong các công trình chuyên khảo về từng chủ đề, từng lĩnh vực thuộc lịch sử
quân sự. Chẳng hạn, khi tìm lời giải đáp cho câu hỏi: tại sao Việt Nam - một
nước nhỏ, thua kém đối phương nhiều lần về tiềm lực và sức mạnh kinh tế, quân
sự lại đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nếu chỉ dừng lại ở các nhân tố
thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh như tính chất chính nghĩa, sự
lãnh đạo của Đảng, sức mạnh tổng hợp của toàn dân, của hậu phương, của sự ủng
hộ quốc tế... thì chưa đáp ứng yêu cầu cao của một công trình sử học. Những
nhân tố quyết định ấy phải được cụ thể hoá trong quá trình diễn biến của lịch
sử, cả thành công và khuyết điểm của phía Việt Nam, những cố gắng và sai lầm
của đối phương, có trường hợp phải nêu ra và phân tích vai trò, tác động của cả
những yếu tố ngẫu nhiên. Ở tầng nấc sâu hơn, người nghiên cứu còn phải đi sâu
tìm hiểu truyền thống quân sự, truyền thống văn hoá Việt Nam. Chính nền văn hoá
Việt Nam- một nền văn hoá giầu bản sắc, hình thành và bồi đắp qua bao thăng
trầm của hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước là cơ sở cho sức mạnh to
lớn của dân tộc Việt Nam trong chống ngoại xâm. Với nhiều sự kiện lịch sử quân
sự dân tộc, đặc biệt những sự kiện lớn, nếu đặt nó, xét nó trong bối cảnh khu
vực, quốc tế, người nghiên cứu có thêm điều kiện để so sánh, đánh giá; qua đó,
càng thấy rõ tầm vóc và ý nghĩa của các sự kiện.
Mỗi sự kiện, mỗi hiện tượng diễn ra trong thế
giới nói chung, trong lĩnh vực quân sự nói riêng, đều có quá trình phát sinh,
phát triển và kết thúc. Quá trình đó diễn ra trong những điều kiện lịch sử cụ
thể, chịu sự tác động của những sự kiện, hiện tượng lịch sử khác. Và đến lượt
mình, bản thân nó cũng tác động đến các sự kiện, hiện tượng lịch sử khác đó,
với từng chừng mực khác nhau. Khi tiếp cận, phân tích, đánh giá, thể hiện các
sự kiện và hiện tượng lịch sử, cần phải xem xét các sự kiện, hiện tượng ấy
trong tính toàn thể và phức tạp của nó; cần phải nghiên cứu và bao quát tất cả
các mặt, tất cả các mối liên hệ trực tiếp, gián tiếp của sự kiện, hiện tượng
lịch sử đó trong bối cảnh lịch sử xác định - bao gồm điều kiện xuất hiện và
hình thành; những nhân tố quy định, chi phối, tác động tới quá trình vận động,
phát triển và kết thúc của nó. Như thế, quá trình nghiên cứu, cần phục dựng lại
bối cảnh lịch sử, xem xét các sự kiện, hiện tượng và quá trình vận động, biến
đổi của nó trong bối cảnh lịch sử đó. Tách các sự kiện khỏi các điều kiện lịch
sử của nó để nghiên cứu sẽ dễ rơi vào khuynh hướng hiện đại hoá lịch sử, áp đặt
suy nghĩ chủ quan của người nghiên cứu...
Một vấn đề nữa, cũng trên bình diện phương
pháp nghiên cứu, biên soạn lịch sử quân sự, là việc đề cập đến các sai lầm,
khuyết điểm của các cấp lãnh đạo, chỉ huy; tới vai trò quần chúng; tới những hy
sinh, tổn thất của quân dân Việt Nam trong hai cuộc chiến tranh chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Lâu nay, với những vấn đề này, người nghiên cứu còn
lúng túng - hoặc né tránh, hoặc lướt qua, hoặc trình bày chung chung. Cũng cần
thấy rằng, cho đến nay, ở không ít công trình lịch sử nói chung, lịch sử quân
sự nói riêng, người đọc nhận thấy mất mát, thương vong của phía Việt Nam được
phản ánh là chung chung, còn thiệt hại về sinh mạng và phương tiện chiến tranh
của đối phương là rất cụ thể. Những năm gần đây, một số trận chiến đấu không
thành công của Quân đội nhân dân Việt Nam trong cả hai cuộc kháng chiến đã được
tập trung nghiên cứu. Tuy nhiên, những nghiên cứu như thế còn hạn chế, nhiều
vấn đề chưa được luận giải sâu sắc. Sự nghiệp kháng chiến của nhân dân Việt Nam
là cả một quá trình vận động rộng lớn, diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá - xã hội và đối ngoại. Quá trình vận
động đó không phải chỉ thẳng tắp một chiều, mà có những bước thăng trầm, quanh
co, phức tạp, thậm chí thụt lùi. Hơn nữa, thực tế diễn biến của lịch sử nói
chung, của hai cuộc kháng chiến nói riêng, rất phong phú, đa dạng, phức tạp, có
cả tất yếu và ngẫu nhiên, thành công và khuyết điểm, thắng lợi và tổn thất; có
vai trò lãnh đạo, chỉ huy và quần chúng, tập thể và cá nhân... Cần lưu ý ở đây
rằng, quan điểm và phương pháp tiếp cận của giới sử học tư sản là quá đề cao
vai trò của cá nhân trong lịch sử; hoặc nói cách khác, là quá "cá nhân
hoá" các sự kiện lịch sử. Ngược lại, ở không ít công trình lịch sử của
giới sử học nước ta, vai trò và những đóng góp cụ thể của cá nhân trong lịch sử
lại không được đề cập hoặc đề cập còn rất mờ nhạt. Quả thật, lịch sử được trình
bày như thế sẽ không đầy đủ, không sống động, không đúng với hiện thực lịch sử
đã diễn ra. Tái hiện các sự kiện, hiện tượng và các quá trình lịch sử cũng như
các nhân vật lịch sử; chỉ ra một cách khách quan, công bằng những thành công và
hạn chế của lịch sử, của nhân vật lịch sử, là nhiệm vụ của người nghiên cứu. Vì
thế, trong khi thực hiện các công trình lịch sử quân sự, cần nắm vững những
quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến
tranh và quân đội, về vai trò của quần chúng cách mạng và cá nhân... để phản
ánh đúng đắn, đầy đủ các mặt trên đây, không né tránh, cũng không cường điệu.
Có như thế, hiện thực lịch sử mới được tái hiện đầy đủ, sự thật lịch sử mới
được bộc lộ, nhận định đưa ra mới có sức thuyết phục, bài học rút ra mới sâu
sắc. Bên cạnh đó, trong một số công trình được xuất bản những năm gần đây, phần
trình bày về đối phương còn sơ sài, chưa đề cập đầy đủ quá trình cân
nhắc, tính toán, chọn lựa các chiến lược
chiến tranh cũng như chưa làm rõ những thành công tạm thời của nó. Sự thật,
trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, không có
một giai đoạn nào đối phương chỉ hoàn toàn sai lầm, thất bại; phía Việt Nam hoàn
toàn chỉ có ưu điểm, không có khuyết điểm. Đối với bộ máy lãnh đạo, chỉ huy và
đội ngũ các tướng lĩnh, sĩ quan của phía Việt Nam cũng vậy, bên cạnh những trận
thắng, có cả những sai lầm, va vấp, thất bại. Đó là điều khó tránh; cần phải
nghiêm khắc rút kinh nghiệm; cần phải được đề cập, tái hiện trong các công
trình lịch sử quân sự. Song, điều quan trọng là không vì một số khuyết điểm,
một số trận chiến đấu bị thất bại, bị tổn thất mà đi tới chỗ không thấy hết,
thậm chí phủ định thắng lợi vĩ đại đã giành được. Điều quan trọng là người
nghiên cứu là phải nắm vững và vận dụng hiệu quả quan điểm toàn diện/toàn thể,
cũng như quan điểm phát triển/biện chứng khi tiếp cận, xem xét, đánh giá các sự
kiện và hiện tượng lịch sử. Hơn nữa, ở các công trình viết về cuộc kháng chiến
chống xâm lược của quân dân ta, cần nêu bật cuộc đấu trí, đấu lực đầy cam go,
thử thách và rất quyết liệt giữa các bên đối chiến cần luận giải đầy đủ, thấu
đáo, có cơ sở khoa học tài nghệ trong chỉ đạo và điều hành chiến tranh của Việt
Nam, trong mối tương quan với sự điều hành của bộ máy chiến tranh đối phương,
giúp người đọc hình dung được đúng đắn, đầy đủ tầm vóc và nguyên nhân thắng lợi
của Việt Nam. Bởi vì, trên thực tế, có những dân tộc có chính nghĩa, rất dũng
cảm, hy sinh to lớn, nhưng không thắng được kẻ thù xâm lược.
Lịch sử, bao gồm trong đó lịch sử quân sự, là
những sự kiện, hiện tượng, quá trình đã diễn ra trong quá khứ. Giữa hiện thực
lịch sử và nhận thức lịch sử tồn tại một khoảng cách. Rút ngắn dần khoảng cách
đó là nhiệm vụ của người làm công tác nghiên cứu lịch sử và điều này tuỳ thuộc
vào nhiều yếu tố. Đối với các vấn đề khoa học còn tồn tại sự nhìn nhận, đánh
giá khác nhau, thậm chí đối lập nhau, người viết phải bằng nhiều cách, cố gắng
tối đa để giải quyết triệt để trong điều kiện có thể, không né tránh hoặc làm
mờ đi những vấn đề khoa học đặt ra một cách khách quan cho chính công trình. Ở
đây, người viết sử phải ý thức đầy đủ rằng, sự thật lịch sử chỉ có một; rằng
mỗi một sự kiện lịch sử được trình bày phải bảo đảm tính chuẩn xác, độ tin cậy.
Ngay cả khi nhà nghiên cứu biết rõ rằng để đưa ra sự thật lịch sử cần đến thời gian và công sức to lớn; trong khi
đó,muốn nghiên cứu bất kỳ một sự kiện nào một cách toàn diện đều cần sự phối
hợp rộng khắp của nhiều nhà khoa học và nhiều ngành khoa học; thì trách nhiệm
của nhà sử học trước sự thật lịch sử vẫn
không hề thuyên giảm. Thậm chí, ở chính những vấn đề lịch sử phức tạp có tính
bước ngoặt lịch sử, thì việc đảm bảo tính
chuẩn xác, độ tin cậy càng là nhân tố quan trọng góp phần vào tổng thể quá
trình nhận thức về vấn đề đó.
Về phương diện đó, tư liệu lịch sử là một trong những nhân tố quan trọng. Tư liệu lịch
sử là nhân tố trung gian giữa nhận thức
lịch sử và hiện thực lịch sử. Giá
trị của mọi công trình nghiên cứu, ở mức nhất định,đều tuỳ thuộc và đặt nền
trên nguồn sử liệu được sử dụng trong công trình. Trên vấn đề này, yêu cầu đặt
ra là, nhà nghiên cứu phải nắm vững và vận dụng sáng tạo các nguyên tắc cơ bản
đặt ra cho quá trình khai thác, sưu tầm, tập hợp, xử lý, đưa vào sử dụng các
nguồn sử liệu; phải tiếp tục đổi mới công tác thu thập và sử dụng tư liệu lịch
sử quân sự, chú trọng các nguồn tư liệu ở các kho lưu trữ của trung ương và địa
phương và tư liệu khai thác từ các nhân chứng lịch sử cũng như từ sách báo, tài
liệu của nước ngoài có liên quan; phải nắm bắt, cập nhật những kết quả nghiên
cứu của tác giả trong và ngoài nước, những tư liệu mới được phát hiện, mới được
công bố... Dĩ nhiên, vấn đề tư liệu thường phức tạp và đòi hỏi không chỉ công
sức, mà còn cần đến nguồn kinh phí lớn. Do đó, việc khai thác, bảo quản và sử
dụng nguồn tư liệu cần đến sự phối hợp của hệ thống lưu trữ tư liệu, cũng như
cần đến sự trợ giúp từ nhiều cơ quan khác nhau trong một mục đích chung, bên
cạnh nỗ lực làm giàu vốn tư liệu lịch sử của những nhà nghiên cứu. Một nhà sử
học chân chính phải ý thức được rằng, góp sức vào công tác xây dựng nguồn tư liệu lịch sử cũng là một trách
nhiệm của người nghiên cứu, không chỉ đối với sử học nói riêng, mà còn đối với
quá trình nhận thức lịch sử và tri thức lịch sử nói chung.
Đề cập đến vấn đề đổi mới phương pháp nghiên
cứu, điều có ý nghĩa quyết định hàng đầu là nhân tố con người... Để đáp ứng
ngày càng tốt hơn đòi hỏi của tình hình và nhiệm vụ mới, những người làm công
tác nghiên cứu lịch sử quân sự phải luôn luôn ý thức đầy đủ và ra sức rèn luyện
bản lĩnh chính trị, bản lĩnh trung thực, dũng cảm của một người viết sử; nỗ lực
học tập, rút kinh nghiệm, nắm vững quan điểm sử học mácxít, vận dụng nhuần
nhuyễn và sáng tạo cũng như luôn tìm cách nâng cao phương pháp luận sử học và
phương pháp nghiên cứu chuyên ngành, xây dựng ý thức tìm tòi, tiếp cận những
phương pháp nghiên cứu mới cũng như tìm cách vận dụng tốt các phương pháp sử
học, đổi mới cách thức tiếp cận vấn đề, đổi mới cách thức trình bày, diễn
đạt... Trong quá trình đó, cần tăng cường hợp tác khoa học dưới mọi hình thức
với các nhà sử học trong nước và nước ngoài, với các viện nghiên cứu, trường
đại học, các trung tâm lưu trữ, thư viện lớn; phải chủ động nắm bắt để cập nhật
kết quả và phương pháp nghiên cứu mới cũng như những phát hiện mới về sự kiện
của các ngành thuộc khoa học xã hội - nhân văn mà trước hết là các ngành khoa
học gần gũi với sử học quân sự như lịch sử Đảng, sử học dân tộc, khảo cổ học,
dân tộc học...
Khoa học xã hội nói chung và sử học nói riêng
hiện nay đã bắt đầu áp dụng các phương pháp định lượng vào trong các nghiên cứu
của mình, đặc biệt ở những lĩnh vực như lịch sử kinh tế, lịch sử ruộng đất,...
Bên cạnh đó, với sự phát triển của nghiên cứu liên ngành, sử học cũng đang có
xu hướng du nhập thêm vào trong mình các lý thuyết và cách phân tích từ những
ngành gần như văn hóa học, xã hội học, chính trị học, thậm chí cả luật học, văn
bản học... Thực vậy, sự phát triển của sử học cần đặt trong dòng chảy đi tới
của khoa học xã hội nói chung, để liên tuc kế thừa và phát huy các thành tựu
nghiên cứu từ mọi ngành, liên tục bổ sung và làm mới phương pháp cũng như tri
thức sử học. Bởi thế, khi đặt vấn đề vận dụng và đổi mới phương pháp nghiên
cứu, biên soạn, cần thấy rằng, không một ngành khoa học nào có thể hoàn thiện
ngay được phương pháp trong quá trình hình thành và phát triển. Vì thế, vận
dụng và đổi mới phương pháp nghiên cứu, biên soạn lịch sử quân sự là một quá
trình mà ở đó, sự kế thừa những thành quả và kinh nghiệm đã tích luỹ được, sự
tiếp thu có chọn lọc và vận dụng sáng tạo phương pháp nghiên cứu của các ngành
khoa học liên quan, sự mạnh dạn tìm tòi, đổi mới cách thức nghiên cứu, biên
soạn... là những nội dung quan trọng nhằm tiến tới xây dựng phương pháp nghiên
cứu khoa học lịch sử quân sự Việt Nam ngày càng hoàn chỉnh hơn, để các công
trình lịch sử quân sự ngày càng có chất lượng tốt hơn.
1.
Thật ra, thuật ngữ này, có những cách hiểu không hoàn toàn giống nhau. Một số
cho rằng, Phương pháp luận là toàn bộ
những cách, những biện pháp, những nguyên tắc tổ chức của việc nghiên cứu;
những tiêu chuẩn đúng để lựa chọn các thủ tục và kỹ thuật nghiên cứu. Một số
khác - chẳng hạn như các tác giả Bách
khoa toàn thư triết học Liên Xô (cũ), định nghĩa: "Phương pháp luận là một học thuyết triết
học về các phương pháp nhận thức và cải tạo hiện thực, là sự vận dụng những
nguyên lý của thế giới quan vào quá trình nhận thức, vào sự sáng tạo tinh thần
nói chung và vào thực tiễn".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!