Thứ Sáu, 14 tháng 2, 2014

35 NĂM NHÌN LẠI “SỰ KIỆN LỊCH SỬ 7-1-1979” TRONG QUAN HỆ VIỆT NAM – CAMPUCHIA



PGS, TS. Hồ Khang
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam
Cùng nằm trên bán đảo Đông Dương, cùng uống chung dòng nước ngọt ngào của sông Mê Kông, cùng tựa lưng vào dãy núi Trường Sơn hùng vĩ, có những nét lịch sử - văn hóa tương đồng, Việt Nam và Campuchia sớm có mối quan hệ mật thiết, máu thịt. Hình thành trong những năm tháng gian nan dựng nước và giữ nước, trải qua những thăng trầm lịch sử, như “lửa đã thử vàng”, quan hệ Việt Nam – Campuchia là mối quan hệ chiến lược, gắn bó bền chặt một cách tự nhiên.

1. Do vị trí địa lý đặc thù, cùng là mục tiêu xâm lược, nhòm ngó của nhiều kẻ thù từ bên ngoài, ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau vừa là nghĩa vụ, vừa là trách nhiệm lương tâm của hai dân tộc Việt, Miên. Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, trong điều kiện Đông Dương là một chiến trường, nhân dân hai nước Việt Nam, Campuchia đã sát cánh cùng nhau chung một chiến hào để bảo vệ nền độc lập vô giá. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Chính phủ Việt Nam đặc biệt chú trọng đoàn kết với nhân dân Campuchia. Trên quan điểm “giúp bạn là tự giúp mình”, Đảng Lao động Việt Nam chủ trương củng cố liên minh chiến đấu với nhân dân Campuchia để kháng chiến giành độc lập và thống nhất thật sự[1], đứng trên lập trường lợi ích chung  mà  hợp  tác lâu dài trong kháng  chiến  và  sau kháng chiến[2].
Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 và việc ký kết Hiệp định Geneve không chỉ mở ra vận hội mới đối với cả hai dân tộc Việt, Miên, mà còn là dấu mốc quan trọng trong quá trình củng cố, phát triển quan hệ Việt Nam- Campuchia. Thực hiện chính sách hòa bình, mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước láng giềng, năm 1960, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố: “Chúng ta hoan nghênh và ủng hộ đường lối hòa bình trung  lập  của  Campuchia và sẽ tăng cường hơn nữa quan hệ hữu  nghị  với  Vương quốc Campuchia”[3]. Trên thực tế, Chính phủ và nhân dân Việt Nam luôn ủng hộ sự lựa chọn con đường trung lập và cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập của Vương Quốc Campuchia do Cựu Quốc Vương Norodom Shihanouk đứng đầu.
 Đáp lại thiện chí và tình cảm của nhân dân Việt Nam, tháng 3-1964, Chính phủ Campuchia tuyên bố cắt đứt các quan hệ ngoại giao với Chính quyền Sài Gòn. Tiếp đó, tháng 6-1967, Chính phủ Campuchia nâng cấp đại diện thường trực Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thành cơ quan Đại sứ quán. Đây là sự ủng hộ có ý nghĩa to lớn, quan trọng của Campuchia đối với Nhà nước và nhân dân Việt Nam đang gồng mình chiến đấu với đế quốc Mỹ. Từ năm 1970, cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Campuchia phát triển nhanh chóng, lực lượng vũ trang lớn mạnh, vùng giải phóng không ngừng mở rộng, cùng hòa chung vào nhịp phát triển sôi động, mạnh mẽ của cuộc đấu tranh giành độc lập trên bán đảo Đông Dương. Trước tình hình đó, Việt Nam ủng hộ, tiếp sức cho Đảng Nhân dân Campuchia đấu tranh chống đế quốc Mỹ, chống chính quyền Lon Non, giành vị trí hợp pháp. Sự cố gắng nỗ lực và hy sinh xương máu của nhân dân Đông Dương đã được đền đáp xứng đáng: Mùa Xuân 1975, Đông Dương được hoàn toàn giải phóng. Đây là “thắng lợi của tình đoàn kết chiến đấu không gì lay chuyển nổi của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia, của mối quan hệ đặc biệt đã có từ lâu trong lịch sử và được thử thách trong ngọn lửa cách mạng”[4].
2- Bước ra khỏi khói lửa chiến tranh, các dân tộc trên bán đảo Đông Dương có cùng mục tiêu tiến lên trên con đường xây dựng đất nước, xây dựng Đông Dương hòa bình, tiến bộ và thịnh vượng. Trong bối cảnh lịch sử mới, Đảng, Nhà nước Việt Nam khẳng định quyết tâm “làm cho ba nước Đông Dương vốn đã gắn bó với nhau trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sẽ mãi mãi gắn bó với nhau trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, vì độc lập và phồn vinh mỗi nước”[5]. Tuy  nhiên, khi cơ hội và khả năng phát triển đang mở ra trước các dân tộc Đông Dương, nhân dân Campuchia lại phải hứng chịu những thử thách khắc nghiệt: Tập đoàn Polpot - Iengxari dựng lên một chế độ diệt chủng kỳ quái, phi nhân tính có một không hai trong lịch sử, lạnh lùng biến ốc đảo thanh bình với nền văn minh Ăngko rực rỡ thành đống đổ nát, hoang tàn, u ám, chết chóc. Dưới bàn tay tàn bạo của tập đoàn Polpot – Iengxari, dấu ấn của một đất nước hiền hòa, thân thiện đã hoàn toàn biến mất. Đất nước Chùa Tháp xinh xắn bị biến thành một trại khổ sai khổng lồ, biệt lập, đầy rẫy những hố chôn người với những khuôn mặt câm lặng, hóa đá vì sợ hãi.
Không chỉ hành xử man rợ với đồng bào mình, dân tộc mình, tập đoàn Polpot - Iengxari còn hết sức hiếu chiến. Với nước láng giềng Việt Nam đã từng "sớm tối có nhau", Chính quyền Polpot tiến hành các cuộc xâm lấn, đánh chiếm biên giới trong thời gian dài với cường độ, tần suất ngày càng gia tăng. Hàng loạt các cuộc tàn sát, thảm sát dọc biên giới Việt Nam – Campuchia do tập đoàn Polpot gây nên không chỉ để lại một vết đen trong quá khứ đau thương của nhân dân Campuchia, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến hòa bình, ổn định trên toàn cõi Đông Dương cũng như trong khu vực.
Dù mọi hành động của Chính quyền Polpot đã vượt quá giới hạn, song vì mục tiêu gìn giữ hòa bình, gìn giữ quan hệ láng giềng hòa hiếu, gìn giữ tình hữu nghị Việt –Miên, khi xung đột biên giới xảy ra, Đảng, Nhà nước Việt Nam không dưới một lần đề nghị phía Campuchia thực hiện nguyên tắc “bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau”[6], đàm phán, giải quyết bằng con đường thương lượng hòa bình. Đảng, Nhà nước Việt Nam mong muốn “hai bên gặp nhau càng sớm càng tốt, ở bất cứ cấp nào để cùng nhau trên tinh thần hữu nghị anh em giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước”[7], song mọi nỗ lực của Việt Nam đều rơi vào vô vọng. Chính quyền Polpot liên tục khước từ và không ngừng mở rộng phạm vi đánh phá, tấn công các điểm dân cư dọc biên giới hai nước. Ngày 31-12-1977, Chính quyền Polpot chính thức cắt quan hệ ngoại giao với Việt Nam, rút Đại sứ quán Campuchia ở Hà Nội và yêu cầu tất cả cán bộ ngoại giao của Việt Nam ở Phnôm Pênh về nước.
Cùng lúc, ở Campuchia, trước sự áp bức tàn bạo của Khơ me đỏ, nhân dân Campuchia đã không thể ngồi im chờ chết, nổi dậy hành động quyết liệt, bạo lực giáng trả bằng bạo lực. Các cuộc phản kháng nổ ra ở nhiều vùng miền và trước đòi hỏi cấp bách của tình thế, tháng 12-1978, Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia ra đời. Đại hội thành lập Mặt trận thông qua Cương lĩnh chính trị 11 điểm, ra lời kêu gọi nhân dân Campuchia đoàn kết đấu tranh đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt. Ngày 26-12-1978, Bộ Chỉ huy Quân đội cách mạng, Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia quyết định phát động phong trào nổi dậy của quần chúng, đồng thời kêu gọi nhân dân Việt Nam giúp đỡ tiêu diệt chế độ diệt chủng. Đáp lời kêu gọi của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia – lời kêu gọi cứu giúp của một dân tộc, quân tình nguyện Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia tiến hành các chiến dịch quân sự, đánh tan lực lượng của chính quyền Pôn Pốt. Ngày 7-1-1979, Thủ đô Phnôm Pênh được giải phóng, nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, đất nước Campuchia được sinh ra lần thứ hai. Bằng thắng lợi của mình, “nhân dân Campuchia góp phần thủ tiêu họa xâm lăng từ đất Campuchia; thiết thực góp phần giúp đỡ nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc”[8].
3- Sự kiện lịch sử 7-1-1979 có ý nghĩa đặc biệt to lớn đối với nhân dân và vận mệnh đất nước Campuchia. Cuộc “cách mạng làm lại” đã chính thức khép lại một trang bi thương đầy máu và nước mắt trong lịch sử dân tộc Campuchia. Thắng lợi ngày 7-1-1979 một lần nữa thể hiện sự gắn bó, thủy chung nghĩa tình giữa hai dân tộc “tối lửa tắt đèn” có nhau, mở ra thời kỳ mới của quan hệ đoàn kết Việt Nam – Campuchia, thời kỳ của tình hữu nghị và hợp tác toàn diện. Thắng lợi ấy khẳng định một tất yếu khách quan: Củng cố, tăng cường quan hệ đặc biệt Việt Nam – Campuchia là đảm bảo chắc chắn cho sự tồn tại của hai nước, là quy luật phát triển của hai dân tộc. Đó cũng là là nhân tố đảm bảo cho việc giữ gìn độc lập của Việt Nam và Campuchia, đồng thời, cũng là nhân tố đảm bảo hòa bình, ổn định ở khu vực Đông Nam Á.
Sau khi tập đoàn diệt chủng Pôn Pốt bị đập tan, Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia, quan hệ Việt Nam – Campuchia bước vào giai đoạn phát triển mới. Ngày 18-2-1979, Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân Việt Nam và Campuchia được ký kết với tinh thần cốt yếu: “Cam kết làm hết sức mình để bảo vệ và phát triển không ngừng truyền thống đoàn kết chiến đấu, quan hệ hữu nghị hợp tác anh em Việt Nam – Campuchia[9].
Mặc dù thất bại, nhưng lực lượng tàn quân Polpot vẫn không chịu hạ vũ khí, không chịu từ bỏ ảo mộng (giấc mộng) quyền lực, tiếp tục tiến hành chiến tranh du kích. Thực hiện cam kết hết lòng và ủng hộ lẫn nhau về mọi mặt và bằng mọi hình thức cần thiết nhằm tăng cường khả năng bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và công việc lao động hòa bình của nhân dân mỗi nước”[10], sau khi giúp Campuchia giải thoát khỏi họa diệt vong, nhân dân Việt Nam tiếp tục “chung lưng đấu cật” với nhân dân Campuchia trong những thử thách mới, gửi quân đội tình nguyện và chuyên gia dân sự giúp bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng đất nước. Những cuộc tiến công dồn dập của quân dân Campuchia phối hợp với quân tình nguyện Việt Nam đã nhanh chóng đẩy tàn quân Pôn Pốt vào thế khó khăn, chứng minh cho những cố gắng sử dụng kết quả của cuộc bỏ phiếu ở Liên hợp quốc về vấn đề Campuchia để hợp pháp hóa hoạt của lực lượng Pôn Pốt là hết sức bất hợp lý, đi ngược lại thực tế và nguyện vọng chân chính của nhân dân Campuchia.
Vượt qua những thử thách, gian lao, trằn mình nếm mật, nằm gai cùng với cán bộ, chiến sĩ nhân dân Campuchia, đại đa số chuyên gia Việt Nam đã sống mẫu mực, chiến đấu dũng cảm, không quản ngại hy sinh, gian khó, chia ngọt sẻ bùi với đất nước Campuchia. Chuyên gia Việt Nam có mặt tại các vùng tàn quân Pôn Pốt hoạt động, giúp cán bộ Campuchia nắm tình hình, kịp thời tư vấn, đề xuất các ý kiến phục vụ thiết thực việc xây dựng các tổ chức quần chúng, mạng lưới cơ sở của Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia, xây dựng lực lượng an ninh – quốc phòng và ổn định sản xuất. Với sự nỗ lực cao độ, với sự giúp đỡ của Việt Nam và cộng đồng quốc tế, từ tro tàn, đổ nát, từ những “cánh đồng chết”, nhân dân Campuchia đã nhanh chóng xây dựng lại đất nước. Cũng như những năm tháng trước đây, trong công cuộc hồi sinh, trong từng ngày từng giờ đất nước Campuchia thay da, đổi thịt, bên cạnh nhân dân Campuchia luôn có nhân dân Việt Nam kề vai, sát cánh, “miếng cơm sẻ nửa, hạt muối cắn đôi”. Lúc này, dù nhân dân Việt Nam đang hết sức khó khăn, nhiều nhu cầu tối thiểu như lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu thiếu thốn trầm trọng, song những chuyến hàng viện trợ nặng ân tình từ Việt Nam vẫn ngày đêm nối đuôi nhau đến với nhân dân Campuchia, hy vọng san đỡ những khó khăn, sẻ chia những nhọc nhằn, bù trừ phần nào những mất mát.
4- Sự kiện 7-1-1979 đã lùi xa vào lịch sử và xung quanh sự kiện này đã có và hiện có những quan điểm, những ý kiến đánh giá khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Thế giới đang đổi thay nhanh chóng, lịch sử đầy ắp các sự kiện, các thăng trầm khó đoán định trước, tuy nhiên, lịch sử luôn có điểm khởi nguồn và hệ quả; đồng thời hết sức khách quan và công bằng. Trong dòng chảy liên tục của lịch sử, hiện thực thoát khỏi lưỡi hái tử thần, hồi sinh, phát triển của dân tộc, của đất nước Campuchia có điểm bắt đầu và là kết quả của những giá trị đích thực, chân chính không dễ gì phủ nhận – kết quả của tình đoàn kết gắn bó, giúp đỡ lẫn nhau Việt Nam – Campuchia. Chủ tịch Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia Heng Sam Rin từng phát biểu: “Chúng tôi đánh giá cao thái độ trung thành, hết tình hết nghĩa của Việt Nam, luôn lấy tình hữu nghị lâu dài giữa nhân dân hai nước làm trọng”[11]. Thủ tướng Chính phủ Hoàng gia Campuchia Samdech Hun Sen khẳng định: “Nếu không có ngày 7-1-1979, nhân dân Campuchia chúng tôi cũng không thể có được những gì trong ngày hôm nay. Đây là chân lý lịch sử không một thế lực phản động nào có thể phủ nhận”[12].
35 năm đã trôi qua, nhìn lại sự kiện lịch sử 7-1-1979 để khẳng định những chân giá trị, củng cố niềm tin và có thêm sức mạnh xây dựng hiện tại– xây dựng, phát triển quan hệ Việt Nam – Campuchia ổn định, lâu dài trên cơ sở những truyền thống tốt đẹp và trên nguyên tắc mới, phù hợp với lợi ích chính đáng của nhân dân mỗi nước cũng như sự ổn định, hoà bình trong khu vực và trên thế giới. Trân trọng quá khứ, trân trọng lịch sử, nhân dân hai nước Việt Nam, Campuchia có đầy đủ những điều kiện để cùng nhau đi tiếp và đi tới một tương lai tốt đẹp, bền vững.
Tải bài viết tại: Trang Web NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.12, tr 148.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr .441-442.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr .940.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần IV, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1977; tr. 11.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Sđd, tr.76-77.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Sđd, tr. 113.
[7] Dẫn theo Lưu Văn Lợi: Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam, tập II (1975 - 1995), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1998, tr.110.
[8] Trường Chinh: “Vấn đề Campuchia”, Báo Quân đội nhân dân,  tháng 12-1979.
[9] Học viện Quan hệ quốc tế: Thắng lợi có tính thời đại và cuộc đấu tranh trên mặt trận đối ngoại của nhân dân ta, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1985, tr.106.
[10] Kỷ nguyên mới của đoàn kết hợp tác Việt Nam – Campuchia, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979. tr.43.
[11] Kỷ nguyên mới của đoàn kết hợp tác Việt Nam – Campuchia, Sđd, tr.12.
[12] Diễn văn của Xăm-đéc Hun Sen, Thủ tướng Chính phủ Hoàng gia Campuchia tại buổi chiêu đãi của Thủ tướng Phan Văn Khải (10-10-2005), http://www.vietnamembassy.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!